Những điều cơ bản về máy ảnh số
Nắm vững thông số tính năng của máy bạn sẽ làm chủ máy ảnh
Khi mua một máy ảnh số mới thì hẳn bạn sẽ rất bối rối với ma trận thông số mà nhà sản xuất đưa ra. Thêm vào đó, các hãng này lại đưa ra con số megapixel để "đánh lừa" người dùng khiến họ lầm tưởng máy cứ có độ phân giải càng cao thì chất lượng hình ảnh càng tốt. Bài viết này sẽ giúp bạn phần nào hiểu rõ hơn về các loại máy ảnh và yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của một tấm hình.
Các loại máy:
Máy ảnh ngắm và chụp (PnS-Point and Shoot) hay còn gọi là máy du lịch: Đây chính là dòng máy ảnh bạn nên dùng nếu chưa biết gì về bộ môn nghệ thuật này. Chúng là những chiếc máy nhỏ, nhẹ, rẻ và cũng được sử dụng nhiều nhất trên toàn thế giới. Ống kính của máy PnS không thay đổi được và đèn trợ sáng flash cũng được tích hợp sẵn. Màn hình LCD phía sau không chỉ dùng để xem lại bức ảnh vừa chụp mà nó còn dùng để ngắm trước khi chụp. Không như DSLR, sẽ có một khoảng trễ nhỏ khi bạn bấm nút chụp trên máy PnS cho đến khi bức hình thật sự được ghi lại. Một số máy PnS có khả năng ghi video, thậm chí là video HD.
Panasonic FZ18, máy ảnh du lịch siêu zoom
Máy ảnh Superzoom (Bridge- dòng bắc cầu): Dòng máy ảnh này trông khá giống với các máy DSLR nhưng tất nhiên đừng hiểu lầm nó sẽ có khả năng của dòng máy cao cấp này. Máy superzoom về bản chất chính chính là PnS nhưng được trang bị ống kính có tiêu cự dài hơn có các thông số kỹ thuật cao hơn. Do đó các máy này cũng cho chất lượng cao hơn PnS. Nhưng tất nhiên, độ trễ khi nhấn nút chụp vẫn chưa được khắc phục và mức giá của dòng máy này khá cao, không thua kém DSLR nhiều.
Micro Four Thirds (MFT): Định dạng máy ảnh mới đưa ra gần đây. MFT cũng có thể thay thế ống kính được nhưng nó lại thiếu mất ống ngắm quang viewfinder có thể nhìn thẳng qua ống kính như dòng DSLR. Định dạng máy ảnh này cũng có cảm biến ảnh lớn nhưng nó không ngắm trực tiếp bằng viewfinder như DSLR mà lại dùng màn hình LCD giống PnS. Việc này sẽ giúp tiết kiệm không gian bên trong và thu nhỏ kích thước của máy nhưng lại tạo ra một bất tiện mới, bạn buộc phải dòng viewfinder gắn thêm chứ không được tích hợp sẵn. Máy MFT có chất lượng khá cao, gần bằng DSLR mà vẫn giữ được kích cỡ nhở gọn để mang đi khắp nơi. Hầu hết các máy MFT đều có khả năng ghi video và chúng thực hiện khá tốt việc đó. Với việc giảm thiểu hệ thống gương lật/ống ngắm quang trên DSLR, MFT có thể ghi video dễ dàng và tốt hơn khá nhiều. Một vài máy thuộc dòng này có phong cách giống DSLR như Panasonic Lumix DMC-G1, trong nhưng những cái khác thì nghiêng về phía máy ảnh ngắm chụp hơn như Olympus EP-1. Phân khúc MFT chỉ mới chiếm một thị phần nhỏ ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên giá của chúng khá cao, bắt đầu từ 750$ và mới chỉ có Panasonic cùng Olympus là 2 hãng duy nhất gia nhập thị trường này.
Máy DSLR (Digital Single Lens Reflex): Máy ảnh số ống kính rời hay còn được biết đến với tên gọi máy cơ trước đây. Điều này bởi vì DSLR có hệ thống gương lật cho phép người chụp quan sát thông qua ống kính. Khi chụp thì gương này sẽ lật lên cho phép ánh sáng đi vào cảm biến ảnh và ghi lại hình ảnh đó. Ngoài ra DSLR cũng dùng loại ống kính có thể thay đổi được, cảm biến ảnh lớn hơn máy ngắm và chụp cùng cơ chế điều khiển cho phép tùy chỉnh nhiều hơn. Hơn thế nữa, các máy ảnh loại này sẽ chụp ngay lập tức khi bạn nhấn núp chụp (nút cò – shutter button) chứ không mất 1 khoảng trễ như PnS. Do đó dòng máy này sẽ bắt các hình ảnh nhanh hơn rất nhiều, đặc biệt là hình ảnh thể thao. Một số dòng DSLR có khả năng quay phim HD 720p hay thậm chí là 1080p và cho chất lượng khá ấn tượng vì ống kính của nó rất tốt. Tuy nhiên chúng chưa sẵn sàng để thay thế cho máy quay vì vẫn không có khả năng lấy tiêu cự tự động trong lúc quay video.
DSLR là loại máy được những nhiếp ảnh gia hoặc người tự gọi mình là nhiếp ảnh gia sử dụng. Chúng chính là dòng máy tạo ra những bức hình chất lượng nhất và vì lẽ đó, DSLR cũng đắt hơn PnS. Nhưng DSLR cũng đang rẻ hơn rất nhiều so với trước đây. Chỉ với 500$ là bạn đã có thể mua một máy từ Olympus, Nikon, Pentax hay Sony…. Và đây mới là dòng máy ảnh thật sự, hơn hẳn loại superzoom nữa nạc nửa mỡ.
Cảm biến ảnh:
Độ phân giải ảnh và megapixel: Từ những ngày đầu của máy ảnh số, thuật ngữ megapixel đã được các hãng sản xuất thi nhau lăng xê nhằm chứng minh máy ảnh của mình ưu việt hơn. Vậy megapixel là gì mà các nhà sản xuất lại nói về nó nhiều đến thế? Để cho đơn giản, một megapixel chính là 1 triệu điểm ảnh. Nếu cảm biến ảnh có hình vuông thì một megapixel sẽ có kích cỡ 1000×1000 pixel. Tuy nhiên các cảm biến thông thường đều có tỷ lệ 4:3 hoặc 3:2 làm cho độ phân giải bị đổi thành 2048×1536 cho 3mp hay 3264×2448 cho 8mp. Chính vì sự mập mờ của các hãng sản xuất đã làm cho nhiều người dùng tin rằng máy ảnh có độ phân giải càng cao thì cho ảnh càng đẹp. Tuy nhiên, sự thật không phải vậy, chất lượng hình ảnh còn tùy thuộc và ống kính, cảm biến ảnh cùng hàng loạt nhân tố khác. Trong thực tế, những bức hình chụp từ điện thoại 5mp không thể so sánh với hình từ máy chụp ảnh 3mp ngày xưa. Cũng tương tự như vậy, 1 máy PnS 12.1mp sẽ cho hình kém hơn khá nhiều so với máy DSLR 10mp.
Nếu bạn cần một bức hình đủ để in khổ lớn hay cần phải crop thật nhiều thì độ phân giải cao sẽ rất cần thiết. Nhưng ngoài việc đó ra, độ phân giải cao chẳng để làm gì. Bạn cũng đừng nên tin tưởng hướng dẫn mua hàng của các hãng máy ảnh. Họ đều ghi con số megapixel cần thiết để in ảnh ở một kích cỡ nhất định nhưng thực chất, con số này không phải là bất biến và sẽ thay đổi qua các thế hệ camera khác nhau. Do đó, trừ khi có ý định dùng máy để chụp những bức ảnh khổ lớn dùng cho tạp chí hay quảng cáo thì tốt nhất bạn cần quan tâm nhiều tới megapixel làm gì. Chính các nhà sản xuất cũng nhận ra điều này và bạn có thể thấy cuộc đua megapixel đã có dấu hiệu chựng lại trong thời gian gần đây. Điển hiển hình chiếc G11 của Canon có độ phân giải kém xa so với kẻ tiền nhiệm G10 trước đó. Họ đã tập trung nâng cao chất lượng cảm biến ảnh để cho ra những bức ảnh ít bị nhiễu hơn so với trước đây.
ISO: Chỉ số ISO được dùng để thể hiện độ nhạy sáng của cảm biến. ISO càng cao, khả năng nhạy sáng của cảm biến càng lớn và lượng ánh sáng cần thiết để chụp một bức ảnh càng ít. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi chụp thiếu sáng hoặc trong các điều kiện có sự phơi sáng thay đổi cực nhanh như chụp ảnh thể thao. Mặc dù vậy, ISO cao không phải là không có điểm yếu. Hình ảnh sẽ trở nên rất nhiễu khi chụp ở mức ISO này. Việc này thường hay xảy ra với các máy PnS do cảm biến ảnh của chúng khá nhỏ mà mật độ điểm ảnh lại rất cao. Chẳng hạn như 1 chiếc máy PnS, cho dù thuộc dòng Telezoom nhưng cảm biến có kích cỡ chỉ khoảng 1/20 so với 1 máy số DSLR full frame hay máy phim 35mm trước đây. Chính vì vậy, cho dù có được quảng cáo có ISO cao đến đâu nhưng những bức hình chụp ở ISO 1600 trở lên trên PnS thường là không thể dùng được. Chỉ có những chiếc DSLR cao cấp mới có khả năng này. Chẳng hạn như máy Nikon D3s có thể đạt được ISO 102.800 trong khi một máy PnS cao nhất cũng chỉ có 6400.
Để cho dễ hình dung, bạn có thể liên tưởng đến máy film trước đây vì ISO đã có từ thời kỳ này. Thời đó bạn mua những cuộc phim có độ nhạy sáng khác nhau được đánh giá theo tiêu chuẩn ISO hay ASA để có thể chụp trong điều kiện mình thích. Khi máy ảnh số ra đời, các tiêu chuẩn này vẫn giữ nguyên và film được thay bằng cảm biến ảnh. Như đã nói ở trên, một máy có chỉ số ISO tốt chưa chắc đã chụp đẹp hơn một máy khác thấp hơn. Do đó, cũng như độ phân giải, bạn cũng không nền chỉ nhìn vào một mình ISO để đánh giá chiếc máy đó mà còn phải xem xét đến các yếu tố khác.
Cảm biến CCD và CMOS: Đây chính là 2 loại cảm biến ảnh được dùng phổ biến nhất máy ảnh cũng như máy quay kỹ thuật số. CCD và viết tắt của Charged-Couple Device trong khi CMOS đến từ Complementary Metal-Oxide-Semiconductor. Bài viết này không có ý định đi sâu vào sự khác biết giữa 2 loại cảm biến này mà bạn chỉ nên biết rằng cảm biến CMOS đang dần chiếm ưu thế hơn CCD. Nếu như trước đây, cảm biến CMOS kém hơn thì nhờ những đột phá từ các hãng máy ảnh, nó đã đủ sức đánh bại CCD trên thị trường DSLR. Hầu hết những mẫu DSLR đều được dùng CMOS và chỉ những mẫu cũ hay cấp thấp mới dùng CCD thôi. Xu hướng này đang tiếp tục diễn ra trên thị trường PnS khi một loạt sản phẩm mới của Sony trong thời gian gần đây là HX1, TX1 hay WX1 cũng dùng cảm biến CMOS đặc biệt do họ chế tạo với tên gọi Exmor CMOS.
Lợi thế của CMOS thế hệ mới so với CCD là loại cảm biến này có thể dễ dàng chế tạo với kích thước lớn để dùng trong các máy DSLR hơn. Mặt khác, trừ các dòng máy Nhật Bản thì hầu hết các loại điện thoại khác cũng dùng CMOS vì nó tiêu tốn ít năng lượng hơn CCD. Tuy nhiên đây chỉ là điện thoại chụp hình và cũng không được dùng thế hệ CMOS mới nhất nên bạn đừng hiểu lầm nếu nhìn những bức ảnh "xấu xí" chụp từ điện thoại. Mặc dù vậy, trên thị trường máy ảnh siêu cao cấp Medium Format (hơn cả DSLR) thì CCD vẫn chiếm ưu thế.
Cân bằng trắng (White Balance): Đã bao giờ bạn thấy một bức hình chụp cảnh ngoài trời mà lại toàn màu cam chưa? Đó chính là vấn đề của cân bằng trắng đấy. Chiếc máy ảnh của bạn phải thực hiện việc bù sáng cho các nhiệt độ sáng (light temperatures) khác nhau: ánh sáng từ đèn dây tóc sẽ có màu cam, trong khi ánh sáng mặt trời lại làm cho ảnh của bạn ám màu xanh. Do đó, máy ảnh phải thực hiện sửa chữa những lỗi này nhằm thu được những bức hình tốt nhất. Mặc dù hầu hết các máy đều có cân bằng trắng thiết lập sẵn nhưng sẽ tốt hơn nếu bạn có thể chỉnh nó bằng tay để đạt độ chính xác cao nhất.
Kích cỡ cảm biến ảnh và hệ số crop: Một số dòng máy ảnh cao cấp có cảm biến xấp xỉ kích cỡ của film 35mm ngày trước, vào khoảng 36x24mm. Những dòng máy này gọi là máy ảnh full frame và thường có giá đắt hơn rất nhiều so với các máy ảnh khác. Một vài ví dụ của dòng này là Nikon D3s, Canon 1D hay Sony A900. Chúng có kích cỡ to hơn so với các dòng máy thường và nằm trong phân khúc bán chuyên nghiệp đến chuyên nghiệp (semi-pro>pro)
Ngược lại với cái máy full frame, có một số dòng máy khác lại được trang bị cảm biến bé hơn với tên gọi APS-C. APS-C có kích cỡ 22x15mm và thường được trang bị trong các máy DSLR cho người mới bắt đầu hoặc trung cấp. Trong một số trường hợp đặc biệt, cảm biến loại này cũng được dùng trong các máy superzoom cao cấp như Sony R1. Vậy liệu có sự khác biệt gì giữa full frame và APS-C không? Về mặt lý thuyết, 1 cảm biến lớn hơn sẽ cho phép tạo ra các điểm ảnh lớn hơn và do đó sẽ dễ dàng bắt được ánh sáng hơn. Hơn thế nữa, các dòng máy full frame có hệ số crop là 1 trong khi máy APS-C là 1,5 đối với Nikon, Sony và 1 vài hãng khác trong khi Canon là 1,6. Điều này là bởi vì cảm biến của Canon có kích cỡ 23x15mm. Ngoài ra ta còn thấy có sự xuất hiện của cảm biến APS-H với kích cỡ 29x19mm và hệ số crop 1,3.
Hệ số crop đặc biệt quan trong bởi vì cảm biến nhỏ hơn sẽ chỉ nhận được 1 phần hình ảnh đi qua ống kính so với cảm biến full frame. Do đó, khi gắn ống kính có tiêu cự 200mm lên máy full frame thì nó vẫn sẽ được giữ nguyên nhưng nếu chuyển qua máy APS-C thì nó chuyển thành 200 x 1,5 =300mm. Cũng tương tự như vậy, ống 50mm sẽ thành 75 hay 100 thành 150mm.
Ống kính: Để có được chất lượng hình ảnh cao nhất thì hệ thống ống kính là rất quan trọng. Trong phần này, chúng ta sẽ nói về ống kinh cho các máy DSLR trước.
Ống kinh có thể thay đổi được: Về mặt tổng quan, có 2 loại ống kinh có thể thay đổi. Một loại cho phép chúng ta phóng to và thu nhỏ một cách dễ dàng với tên gọi là ống zoom. Trong khi loại kia chỉ có 1 tiêu cự cố định nên được gọi là fix lens hay prime lens. Đối với các ống zoom, ta chỉ cần đứng yên 1 chỗ mà vẫn có thể phóng to hết mức hình ảnh ở xa trong khi ống fix lại buộc người dùng phải di chuyển tới nơi cần chụp. Đây là hành động mà người ta vẫn gọi là "zoom chân". Thông thường, các ống fix sẽ cho chất lượng hình ảnh tốt hơn ống zoom bao giải tiêu cự đó. Chẳng hạn như ống fix 135mm sẽ chụp ở tiêu cự 135mm đẹp hơn là ống zoom 70-200mm cũng ở tiêu cự đó. Tiêu cự chuẩn của ống kính cũng như mắt người là 50mm. Do đó, những ống có tiêu cự bé hơn 50mm sẽ được gọi là ống rộng (wide) còn lớn hơn 50mm là ống tele. Ống tele thường dùng dể chụp chân dùng còn ống wide chụp phong cảnh.
Một số ống kính của Nikon
Ống kinh trên các máy PnS và hệ số X: Bên cạnh độ phân giải, một trong những tính năng được quảng cáo nhiều nhất là máy zoom được bao nhiêu X, ví dụ như 3x, 5x hay 10x… Vậy X là gì?
Để cho đơn giản, X chính là tỷ lệ giữa tiêu cự dài nhất mà ống kính có thể đạt được và tiêu cự ngắn nhất. Khi được gắn trên cùng 1 máy, ống có khả năng zoom từ 50-100mm sẽ là 2x, trong khi ống 18-105mm xấp xỉ 6x. Đây cũng chính là lý do mà dòng máy bridge có tên gọi khác là superzoom do nó có khả năng zoom rất xa. Tuy nhiên bạn cũng đừng để hệ số X này "đánh lừa". Một ống kính có tiêu cự 18-42mm cũng là 3x trong khi ống 50-100mm chỉ là 2x mà thôi. Nhưng trên thực tế, ống 18-42mm không thể nào chụp được ảnh ở xa bằng 50-100mm được.
Màn trập, tốc độ màn trập và độ trễ màn trập (shutter lag): Màn trập chính là cánh cửa nhỏ nằm giữa cảm biến ảnh và ống kính và chỉ có máy ảnh DSLR mới có trong khi máy PnS thì không như vậy. Khi bạn nhấn nút chụp hình, màn trập sẽ được mở lên cho ánh sáng đi vào cảm biến để ghi hình lại nên tốc độ của màn trập là rất quan trọng. Các máy ảnh DSLR có tốc độ màn trập trải rất dài, từ 1/4000 giây cho đến 10 giây và còn hơn thế nữa ở các dòng máy cao cấp. Tuy nhiên chỉ một mình tốc độ màn hình thì không thể làm được gì mà còn phải có sự kết hợp hài hòa giữa ISO và độ mở ống kính nữa. Tốc độ màn trập càng cao, ánh sáng đi vào càng ít nên hình sẽ tối hơn tốc độ màn trập thấp.
Thuật ngữ độ trễ màn trập lại hoàn toàn khác với màn trập trên máy DSLR. Đây chính là nhược điểm của các máy PnS. Sau khi bạn nhấn xong nút chụp sẽ có một khoảng lặng trước khi hình ảnh đó thật sự được ghi lại. Chính vì vậy nên một máy có độ trễ màn trập thấp sẽ tốt hơn máy có độ trễ cao. Dù vậy, thông số này khá chuyên sâu nên các nhà sản xuất không nói nhiều về nó.
Độ mở ống kính: Độ mở ống kính chính là cái lỗ để ánh sáng đi vào sau khi đã đi qua ống kính. Lỗ này càng lớn thì ánh sáng đi vào càng nhiều. Chính vì lý do này mà các ống có độ mở lớn có thể dễ dàng chụp được những bức hình trong điều kiện thiếu sáng. Cho dù vậy, nó cũng có nhược điểm. Ở độ mở lớn nhất, ống kính chỉ có thể lấy nét tại một khu vực rất nhỏ nên các khu vực trước và sau sẽ bị out nét và trở nên nhòe đi. Ngược lại, độ mở ống kính nhỏ sẽ cho ít ánh sáng đi vào làm cho hình ảnh tối hơn hoặc yêu cầu ISO cao hay tốc độ màn trập chậm hơn để thu được cùng một lượng ánh sáng như độ mở ống kinh lớn. Để bù lại, hình ảnh từ độ mở nhỏ sẽ giữ cho toàn khung cảnh nét hơn. Độ mở được đánh dấu bằng trị số f, trị số này càng cao thì độ mở càng nhỏ và ngược lại.
Zoom quang và zoom số: Một trong những điểm nữa để nhà sản xuất "đánh lừa" người tiêu dùng chính là zoom số. Zoom quang mới là zoom "thật" do nó sử dụng ống kính để phóng to hay thu nhỏ. Còn zoom số lại dùng các phần mềm nội suy để phóng to lên, do đó chất lượng sẽ kém hơn zoom quang rất nhiều. Zoom số đôi khi giúp cho bức ảnh được lấy nét tốt hơn nhưng trong đại đa số các trường hợp, nó là vô dụng. Do đó, bạn hãy bỏ qua nó và dùng zoom quang. Nếu muốn, bạn hãy dùng máy tính để crop nó lại sau này.
Ổn định hình ảnh: Các nhà sản xuất dùng đủ loại từ ngữ hoa mỹ để nói về công nghệ này. Với Sony, nó là Super Steady Shot (SSS), Vibration Reduction (VR) của Nikon và Image Stabilization (IS) dành cho Canon… Tựu chung lại, thuật ngữ này có thể gọi đơn giản là chống rung vì nó giúp khắc phục những rung động máy ảnh khi chụp, làm cho hình ảnh không bị nhòe nữa . Ổn định hình ảnh đang trở thành một trong những tiêu chuẩn của máy ảnh, từ PnS cho đến DSLR.
Có 2 loại chống rung là chống rung số và chống rung quang học. Chống rung số thường được thấy trên các máy PnS khi nó sửa chữa những bức hình đã chụp bằng phần mềm chứ không phải phần cứng như chống rung quang học. Phương pháp này thường cho kết quả chỉ ở mức trung bình. Trong khi đó chống rung quang học lại tốt hơn nhiều. Nó lại chia ra làm 2 loại nhỏ là chống rung trong thân máy bằng cách dịch chuyển cảm biến ảnh mà Sony là đại diện tiêu biểu hay chống rung ống kính do Canon và Nikon dẫn đầu. Chống rung ống kính có lợi thế là cho chất lượng tốt hơn 1 chút ở những dòng ống cực kỳ cao cấp có tiêu cự dài trong khi chống rung thân máy lại có thể dùng với đủ mọi loại ống kính chứ không yêu cầu phải dùng ống đặc chế. Dù vậy, chống rung quang học không phải là phép màu. Nó chỉ giúp bạn phần nào chứ không thể hoàn toàn khác phục được việc rung của máy. Do đó đừng hy vọng có thể chụp được những bức hình với tốc độ màn trập 4 giây mà không dùng chân máy!
Phần mềm:
Các chế độ chụp, nhận diện khuôn mặt, nhận diện nụ cười: Hầu chế các máy chụp hình đều được trang bị các chế độ chụp được thiết lập sẵn nhằm giúp người mới dùng dễ dàng hơn trong việc sử dụng. Các chế độ này hoàn toàn có thể thay đổi hoặc thêm vào được, cũng giống như bạn chỉnh equalizer trên máy nghe nhạc vậy. Tuy nhiên, sẽ tốt hơn nếu bạn có thể tự thiết lập bằng tay vì các chế độ tự động chưa chắc đã chính xác trong mọi trường hợp.
Nhận diện khuôn mặt và nhận diện nụ cười cũng là chức năng bổ sung thêm cho máy ảnh. Khi kích hoạt nhận diện khuôn mặt, máy sẽ cố gắng nhận biết người trong khung ảnh để thay đổi mức độ phơi sáng, cân bằng trắng và tiêu cự nhằm bảo đảm người đó luôn sắc nét và không bị nhòe hình. Nhận diện nụ cười cũng giống như nhận diện khuôn mặt. Bằng các thuật toán, máy sẽ thử nhận biết xem miệng của người được chụp có đang ở hình dạng lưỡi liềm hay không. Điều này nhằm đảm bảo đối tượng cần chụp không bị nhăn nhó khi ta bấm máy. Tất nhiên, 2 chức năng này chỉ là phụ và đôi khi chúng hoạt động không chính xác lắm.
Nikon D300s hỗ trợ cả thẻ SD và CF
Định dạng ảnh: Bởi vì máy ảnh số không có phim nên nó buộc phải lưu tất cả dữ liệu lên thẻ nhớ. Và do vậy, sẽ có những định dạng ảnh khác nhau được ghi lại để thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi người. Có 2 định dạng được sử dụng nhiều nhất là JPEG và RAW. File JPEG thường nhỏ hơn RAW do nó đã bị nén lại. Việc này đồng nghĩ với chất lượng file JPEG cũng bị giảm đi đáng kể so với định dạng thô là RAW. Tuy nhiên, file JPEG có thể dùng ngay lập tức vì máy tính nào cũng đọc được trong khi RAW phải trải qua một quá trình chuyển đổi do mỗi nhà sản xuất lại có 1 định dạng RAW khác nhau.
File RAW ghi lại chính xác những gì cảm biến ảnh nhận thấy, do đó bạn có thể chỉnh sửa những thông số của nó như mức độ phơi sáng, cân bằng trắng, màu sắc…. sau khi chụp tốt hơn nhiều so với file JPEG vốn chỉ có thể thay đổi một ít. Chính vì lý do này mà hầu hết các máy DSLR đều cho phép chụp RAW hoặc RAW kết hợp với JPEG cùng 1 lúc. Việc chụp này tuy tiêu tốn dung lượng ổ cứng nhưng nó sẽ rất thuận tiện cho việc sửa chữa những lỗi mà bạn đã gặp khi bấm máy. Thêm vào đó, dung lượng lưu trữ ngày càng rẻ nên bạn cũng không cần phải lo lắng quá về việc này. JPEG để in hoặc đưa lên mạng ngay lập tức còn RAW dùng để chính sửa về sau. Một vài máy ảnh PnS cũng có thể chụp RAW nhưng số này là rất hiếm.
Quay phim: Hầu hết thế hệ camera mới đều có khả năng quay phim, thậm chí là đối với các máy DSLR. Tuy nhiên, bạn nên hiểu rõ về độ phân giải. Không phải vì chiếc máy của bạn có 10mp mà nó có thể quay phim ở độ phân giải đó. Độ phân giải tiêu chuẩn cho các máy PnS thường chỉ là VGA 640×480 mà thôi. Độ phân giải này thường chỉ đủ dùng cho YouTube. Trong khi đó, các máy DSLR hoặc PnS cao cấp có thể đạt độ phân giải 720p hay thậm chí Full HD 1080p, lần lượt tương ứng với 1280×720 và 1920×1080.
Lưu trữ: Các máy ảnh PnS thường có một bộ nhớ nhỏ bên trong nhưng thường nó không đủ để lưu trữ ảnh, tuy nhiên vẫn có những trường hợp cá biệt như chiếc Sony Cyber-Shot T2 có bộ nhớ dung lượng lên tới 4GB. Dù vậy, khi đã dùng máy ảnh số thì bạn nên xác định mình sẽ phải mua thêm thẻ nhớ ngoài. Có khá nhiều định dạng thẻ nhớ khác nhau nhưng có 2 định dạng chính là SD và CF. Ngoài ra ta còn thấy sự xuất hiện của các thẻ Memory Stick trên các máy Sony hay xD của Olympus và Fujifilm. Thẻ SD rẻ hơn và tốc độ cũng chậm hơn CF khá nhiều. Bù lại nó nhỏ gọn chứ không to như CF. Tuy nhiên thẻ CF lại bền hơn và có khả năng hoạt động trong các điều kiện thời tiết và nhiệt độ phức tạp hơn các loại khác. Do đó, nó được dùng trong các máy ảnh DSLR cao cấp còn SD là cho dòng DSLR trung cấp trở xuống và PnS.
Khi mua một chiếc thẻ nhớ, bạn không nên nhìn vào những con số như 66x hay 133x… mà hãy nhìn vào tốc độ thực tế của nó thể hiện bằng MB/s. Những thẻ SD được xếp hãng tốc độ theo Class từ 1-6. Ví dụ thẻ Class 6 bảo đảm tốc độ truyền dữ liệu tối thiểu của thẻ đó là 6MB/s.