Chụp ảnh với Flash-Hướng dẫn cho người mới bắt đầu
Chụp ảnh với flash có độ phức tạp gấp 3 lần so với chụp ảnh với ánh sáng của môi trường (ambient light). Tuy nhiên, khi chúng ta đã hiểu những gì xảy ra trong vài mili giây sau khi nhấn nút chụp hình, chúng ta sẽ không còn thấy nó quá khó nữa và có thể chụp được những bức hình theo ý mình.
Cơ bản
Trước khi phưu lưu vào thế giới của chụp ảnh với flash, bạn cần phải có kiến thức cơ bản về độ phơi sáng (exposure). Bài hướng dẫn này mặc định rằng bạn đã hiểu được sự ảnh hưởng của tốc độ chụp (shutter speed) tới độ phơi sáng và bắt dính các chuyển động (motion blur), sự ảnh hưởng của khẩu độ tới độ phơi sáng và độ sâu trường ảnh (depth of field), sự ảnh hưởng của độ nhạy sáng (ISO setting) tới độ phơi sáng và nhiễu (digital noise).
Bài 1: Những vấn đề cần biết khi chụp ảnh với flash
Bốn vấn đề đầu tiên là những vấn đề chung, bất khể bạn sử dụng flash gắn sẵn trên máy, flash ngoài gắn vào hotshoe hoặc ánh sáng studio (studio strobes).
#1: Mọi tấm ảnh chụp với flash đều có 2 loại phơi sáng – một là sự phơi sáng với ánh sáng của môi trường và một là sự phơi sáng với ánh sáng của flash. Đây là vấn đề rất quan trọng cần phải nhớ. Hãy tưởng tượng ra trình tự: màn trập mở ra, flash nháy sáng, màn trập đóng lại. Trong khoảng thời gian này, cả ánh sáng của môi trường lẫn ánh sáng của flash đều đóng góp vào quá trình ghi nhận hình ảnh. Chụp ảnh với flash yêu cầu bạn phải kiểm soát được cả hai loại phơi sáng này
#2: Sự phơi sáng đối với ánh sáng của flash không bị ảnh hưởng bởi tốc độ chụp (shutter speed). Toàn bộ quá trình phát sáng của flash bắt đầu và kết thúc trong khi màn trập đang mở, vì vậy việc để màn trập mở lâu hơn không giúp cho việc rọi sáng của flash. Sự phơi sáng đối với ánh sáng của flash và tầm hiệu quả của flash chỉ bị ảnh hưởng bởi khẩu độ và độ nhạy sáng chứ không phải bởi tốc độ chụp. Tuy nhiên, ánh sáng của môi trường trong khi chụp với flash sẽ bị ảnh hưởng bởi tốc độ chụp. Vì vậy, thay đổi tốc độ chụp là một cách để kiểm soát lượng ánh sáng từ môi trường được thu lại trong quá trình chụp với flash.
#3: Sự rọi sáng của flash bị ảnh hưởng rõ rệt bởi khoảng cách chụp. Điều này cũng tuân theo quy luật căn bậc 2. Giả sử chúng ta sử dụng một lens cho tầm nhìn (field of view) là 4x6ft và khoảng cách chụp là 10ft. Cũng lens trên sẽ cho khoảng nhìn là 4x12ft nếu khoảng cách chụp là 20ft. Khi chúng ta nhân đôi khoảng cách chụp, diện tích ánh sáng sẽ phải bao phủ rộng gấp 4 lần (96ft2 so với 24ft2). Để đảm bảo cho độ sáng là như nhau thì lượng sáng cần phải cung cấp sẽ lớn gấp 4 lần. Hiện tượng này, thỉnh thoảng được gọi là “flash falloff”, sẽ ảnh hưởng tới một hình ảnh nào đó khi chụp nhiều đối tượng tại các khoảng cách khác nhau. Khi khoảng cách tới đối tượng chụp tăng lến 1.4 lần (căn bậc 2 của 2), ánh sáng của flash rọi lên đối tượng sẽ bị giảm đi một nửa. Giả sử chúng ta chụp một nhóm người xếp hang. Người đứng đầu cách chúng ta 10ft và người đứng hàng cuối cách chúng ta 14ft. Với nguồn sáng flash là nguồn sáng chính thì người đứng đầu sẽ sáng hơn người đứng cuối một stop
Trong tấm hình dưới đây, mỗi chiếc cố sáng hơn chiếc đứng sau một stop và tối hơn chiếc đứng trước 1 stop. Chiếc cốc đầu tiên sẽ sáng hơn chiếc cốc cuối cùng 16 lần. Những con số về khoảng cách trên tương tự như f/stop đối với khẩu độ.
#4: Ánh sáng môi trường và ánh sáng từ flash được máy ảnh đo một cách riêng biệt. Trong chế độ Av, Tv hoặc P, độ phơi sáng theo ánh sáng môi trường có thể được thực hiện bằng cách điều chỉnh tốc độ, khẩu độ hoặc cả hai yếu tố. Trên thực tế, flash được bật cũng không có ảnh hưởng gì đối với độ phơi sáng theo ánh sáng môi trường (ngoại trừ khi sử dụng chế độ P, máy ảnh ko sử dụng tốc độ chụp chậm hơn 1/60 khi sử dụng flash). Hệ thống đo sáng của máy ảnh không thể ước đoán được bao nhiêu ánh sáng thu được từ đèn flash, vì thế nó không thể dùng ánh sáng này để thiết lập tốc độ, khẩu độ.
Vấn đề số 5 liên quan tới các hình thức sử dụng đo sáng flash (flash metering) tự động, bao gồm “auto thyristor” flash, TTL, E-TTL hoặc E-TTL II.
#5: Đối với đo sáng flash tự động, ánh sáng chiếu từ flash được đo sau khi nút chụp ảnh (shutter button) được bấm và lượng ánh sáng phát ra từ flash được điều chỉnh tương ứng. Có một vài khác biệt kỹ thuật giữa các hình thức đo sáng flash nhưng tất cả các hình thức này đều hoạt động độc lập với viêc đo sáng đối với ánh sáng môi trường bằng cách điều chỉnh lượng ánh sáng phát ra từ flash chứ không phải thay đổi các thông số phơi sáng của máy ảnh.
#6: Mọi máy ảnh SLR với màn trập cơ học (mechanical shutter) thường có một tốc độ chụp tối đa để đồng bộ hóa với flash (maximum flash sync shutter speed) (1/200 hoặc 1/250 đối với các máy Canon DSLR hiện nay). Tại tốc độ chụp chậm, màn đầu tiên (first curtain) được mở, flash phát sáng, và sau một khoảng thời gian nhất định, màn thứ hai (second curtain) đươc đóng lại sau màn thứ nhất. Tại tốc độ chụp nhanh hơn flash sync, màn thứ 2 bắt đầu được đóng lại trước khi màn thứ nhất được mở toàn bộ. Màn thứ hai đóng lại sau màn thứ nhất và hai màn này chạy song song với nhau theo dọc khung hình, chỉ phơi sáng chỉ phần hình ảnh nằm giữa hai màn vào thời điểm đó. Flash phát sáng trong suốt quá trình này sẽ rọi sáng chỉ một phần của hình ảnh.
Bài 2: Tại sao chúng ta lại cần flash rời cho máy ảnh?
Rất nhiều máy ảnh, bao gồm cả một số máy DSLR ảnh khá đắt tiền, có flash tích hợp sẵn cũng như là có khe để gắn flash ngoài. Người mới bắt đầu thường hỏi tại sao họ nên mua một chiếc flash ngoài để gắn vào đó, bài học này sẽ trả lời cho câu hỏi đó.
Lý do 1: Hiện tượng mắt đỏ (redeye)
Chúng ta đều nhìn thấy những bức ảnh chụp người mà mắt họ đỏ rực như mắt mèo. Điều này có thể làm hỏng một tấm ảnh dù các yếu tố khác đều rất đẹp. Mắt đỏ được gây ra bởi ánh sáng phản xạ từ võng mạc của mắt. Hiện tượng này càng tệ khi đồng tử của mắt chủ thể mở rộng (chụp trong nhà) hoặc khi chụp với góc hẹp giữa nguồn sáng (flash), mắt và ống kính. Về phương diện hình học, hai nhân tố ảnh hưởng tới góc trên là khoảng cách giữa flash và ống kính; và khoảng cách từ máy ảnh tới mắt chủ thể. Một cách để tránh mắt đỏ là chuyển flash ra xa ống kính. Flash càng cách xa ống kính thì khả năng tránh được hiện tượng mắt đỏ càng nhiều. Thông thường, flash gắn ngoài sẽ có khoảng cách tới ống kính gấp đôi flash bật lên từ máy. Chúng ta có thể sử dụng giá đỡ để làm tăng khoảng cách với ống kính nhằm tránh hiện tượng mắt đỏ.
Lý do 2: Độ sáng
Khoảng sử dụng hiệu quả của bất kỳ loại flash nào phụ thuộc vào khẩu độ và độ nhạy sáng được máy ảnh sử dụng. Ví dụ, tại f/8 và ISO 100, flash có sẵn trong máy DSLR hiện nay chỉ mang lại hiệu quả nếu chủ thể nằm trong khoảng cách 5ft (khoảng 1.5m). Tất nhiên, chúng ta có thể tăng khoảng hiệu quả này bằng cách mở khẩu hoặc tăng ISO nhưng điều này dẫn đến làm giảm độ sâu trường ảnh hoặc tăng nhiễu. Một flash ngoài tốt có khả năng cung cấp ánh sáng mạnh gấp 15 lần flash có sẵn trong máy và mang lại khoảng cách sử dụng hiệu quả gấp 4 lần. Điều này cho phép chúng ta có thể khép khẩu để lấy độ sâu trường ảnh lớn hoặc giảm ISO để giảm nhiễu. Độ sáng cũng là yếu tố quan trọng để đánh flash phản xạ hoặc bù sáng trong lúc chụp hình ngoài nắng.
Lý do 3: Đánh flash phản xạ (bounced flash)
Khả năng hướng flash vào tường hoặc trần nhà sẽ tạo ra bức hình tốt hơn nhiều so với đánh thẳng. Điều này có thể giải nghĩa bởi sự khác nhau giữa ánh sáng gắt chiếu thẳng vào mặt và ánh sáng phản xạ từ trần hoặc tường dịu hơn và gần với ánh sáng tự nhiên. Ngoài ra sự phản xạ ánh sáng từ trần có tác dụng làm nguồn sáng rộng hơn, tạo ra bong đổ mềm hơn, nền ảnh sáng hơn tự nhiên hơn. Độ sáng yêu cầu cho kỹ thuật này thay đổi rất lớn tùy theo độ cao và màu sắc của trần và các yếu tố khác nhưng thậm chí với trần nhà thấp và trắng, độ sáng yêu cầu vẫn gấp 4 lần độ sáng khi ta đánh flash trực tiếp. Với flash trực tiếp, chúng ta chỉ chiếu sáng đối tượng chụp, với flash phản xạ, chúng ta chiếu sáng cả căn phòng.
Lý do 4: Công cụ điều chỉnh ánh sáng flash (Flash modifiers)
Có rất nhiều loại “diffuser” hoặc các phụ kiện khác gắn vào flash để thay đổi hướng của ánh sáng phát ra từ flash. Chúng ta có thể sử dụng softbox, lambency diffuser … hoặc đơn giản như một tấm thẻ buộc vào flash. Các hình thức trên có thể hoạt động hơi khác nhau nhưng nói chung chúng đều được thiết kế để tạo ra nguồn sáng rộng hơn chiếu lên chủ thể. Một trường hợp hoàn toàn khác biệt so với các loại phụ kiện trên là Better Beamer, dùng để tạo ra một nguồn sáng mạnh, hẹp chiếu một khoảng cách lớn cho việc chụp hình động vật hoang dã (wildlife shooting). Khi sử dụng đúng, các công cụ điều chỉnh ánh sáng flash có thể làm tăng chất lượng ảnh chụp một cách rõ rệt nhưng rõ rang là chúng ta cần phải có một flash gắn ngoài để sử dụng chúng.
Lý do 5: Giá đỡ flash
Giá đỡ flash có rất nhiều loại và phục vụ cho hai mục đích. Bên cạnh việc di chuyển flash ra xa ống kính (đã đề cập ở lý do 1), nó còn cho phép máy ảnh có thể xoay dọc trong khi flash vẫn ở phía trên của ống kính. Điều này ngăn ngừa việc đổ bóng sáng bên cạnh có thể làm hỏng bức ảnh trong khi chụp theo chiều dọc. Một số loại giá đỡ có thể lật được flash, giữ cho flash cùng chiều với máy ảnh. Loại này cho phép flash zoom cùng với ống kính và tránh được ánh sáng thừa với flash trực tiếp. Một số loại khác lại cho phép máy ảnh xoay trong khi flash vẫn giữ nguyên trên máy ảnh. Loại này làm cho việc đổi chiều trong khi gắn trên tripod trở nên dễ dàng và làm việc tốt hơn với một số loại flash modifier như là Lumiquest Promax System. Sử dụng giá đỡ flash yêu cầu phải có một dây sync nối flash với máy ảnh.
Ảnh từ Canon Photograph forum
Lý do 6: Các lý do khác.
Hầu hết các flash gắn ngoài đều có thêm các tính năng mà flash gắn cùng máy không có. Một số tính năng thường thấy ở flash gắn ngoài:
1. Hỗ trợ lấy nét-Tính năng này tạo ra các vạch sáng trên chủ thể hỗ trợ hệ thống lấy nét tự động hoạt động tốt hơn trong điều kiện ánh sáng yếu.
2. FP Flash (high speed sync)-Tính năng này cho phép sử dụng tốc độ chụp cao hơn. Nếu chúng ta sử dụng flash để bù sáng khi chụp ngoài trời và muốn đặt khẩu độ lớn để xóa phông mạnh, FP Flash là rất cần thiết.
3. Chế độ manual-Cho phép chúng ta thiết lập và điều chỉnh độ sáng của flash, không bị lệ thuộc hoàn toàn vào hệ thống đo sáng flash tự động (automatic flash metering) và cũng có thể sử dụng flash như một nguồn sáng phụ thuộc (slave). Đây là kiến thức khá khó nhưng trước sau gì chúng ta cũng phải nghiên cứu sử dụng.
4. Wireless E-TTL-Cho phép sử dụng nhiều flash với các độ sáng khác nhau trong chế độ master/slave (chỗ này em ko dịch thì tốt hơn) được sắp xếp bằng chế độ đo sáng flash E-TTL (E-TTL flash matering)
Tóm lại, các máy ảnh DSLR ngày nay đều trang bị những công nghệ tiên tiến và với những ống kính phù hợp, chúng có thể chụp được những bức ảnh tuyệt vời. Tuy nhiên, flash sẵn có trong những máy này không cung cấp đủ độ sáng cần thiết và quá gần ống kính, ko thể sử dụng để đánh phản xạ và không thể dùng được cái các phụ kiện điều chỉnh ánh sáng flash. Sự vô dụng của chúng giải thích tại sao các máy ảnh cao cấp không tích hợp sẵn đèn flash
Lời khuyên dành cho mọi người dùng DSLR là mua một đèn flash ngoài ngay nếu bạn đủ tiền cho nó. Trong khi có rất nhiều thể loại ảnh không yêu cầu có đèn flash, nhưng hầu hết những người mới cầm máy đều chụp người (people shot) hơn là chụp các chủ thể khác. Flash có thể cải thiện ảnh chụp người kể cả trong nhà lẫn ngoài trời. Trước khi nghĩ tới việc mua thêm ống kính hoặc một cái tripod xịn hoặc một phụ kiện nào khác, hãy mua một đèn flash tốt cho máy ảnh của mình
#7: (Chỉ áp dụng cho các máy ảnh số hiện đại). Nếu chúng ta thiết lập tốc độ chụp nhanh hơn flash sync hoặc sử dụng chế độ Av với khẩu độ yêu cầu phải có tốc độ chụp nhanh hơn flash sync để đạt được độ phơi sáng đúng, máy ảnh sẽ tự động chuyển tốc độ chụp về tốc độ flash sync khi tấm ảnh được chụp nếu flash built-in hoặc flash gắn ngoài được bật. Thường thì kết quả là dư sáng trừ khi chúng ta thiết lập “safety shift” trong custom function. Khi ảnh bị dư sáng khi sử dụng flash ngoài trời, có thể là do nguyên nhân trên. Ảnh chụp thường không bị dư sáng do sánh sáng từ flash mà thường bị dư sáng do ánh sáng môi trường bởi vì tốc độ chụp quá thấp. Nếu chúng ta sử dụng flash để bù sáng trong điều kiện trời sáng, cần phải giảm khẩu độ hoặc giảm ISO để tốc độ chụp thấp hơn tốc độ flash sync.
Bài 3: Đánh flash phản xạ như thế nào
Chụp ảnh đòi hỏi khá nhiều kỹ thuật và khá phức tạp, không một thông số hoặc cách thức nào có thể áp dụng được cho mọi trường hợp, bài hướng dẫn này viết trên giả định chúng ta chụp trong một phòng nhỏ và có trần thấp màu trắng, thường là nhà ở, lớp học hoặc phòng làm việc.
Tại sao sử dụng flash?
Đơn giản để tạo ra hoặc thêm vào ánh sáng cho căn phòng cho phép chúng ta thiết lập tốc độ chụp cao hơn (giảm bóng mờ trong ảnh), khép khẩu nhỏ hơn (có trường ảnh sâu hơn), ISO thấp (giảm nhiễu) so với việc sử dụng ánh sáng môi trường. Hệ thống hỗ trợ lấy nét của flash cũng giúp chúng ta lấy nét nhanh hơn và chính xác hơn trong điều kiện ánh sáng yếu.
Tại sao phải dùng flash phản xạ?
Trong tự nhiên, nguồn sáng thường chiếu từ phía trên xuống chủ thể, vì vậy vùng bóng đổ tạo ra bởi ánh sáng phản xạ từ trần nhà khi dùng flash trông sẽ tự nhiên hơn. Khi ánh sáng phát ra từ flash đập vào trần nhà và phản xạ xuống theo mọi hướng, ánh sáng sẽ rọi sáng cả căn phòng. Điều này tạo ra một nguồn sáng rộng khắp phòng không những làm bóng đổ mềm hơn mà còn làm nền ảnh sáng hơn. Khi sử dụng đúng cách, đánh flahs phản xạ còn giúp chúng ta tạo ra được hình ảnh tự nhiên không giống ảnh có sử dụng nguồn sáng ngoài. Nguyên nhân cuối cùng là đánh flash phản xạ sẽ loại bỏ hiện tượng mắt đỏ khi chụp với flash trực tiếp.
Vấn đề nhiệt độ màu
Flash ngoài tạo ra nhiệt độ màu tương tự như ánh sáng ban ngày. Ánh sáng từ đèn dây tóc (incandescent, tungsten) có nhiệt độ màu thấp hơn tự nhiên và ánh sáng tạo ra từ đèn neon (fluorescent) có nhiệt độ màu cao hơn tự nhiên làm cho ảnh bị ám xanh hoặc ám vàng. Thông thường, đèn flash có khả năng tạo ra nguồn sáng đủ mạnh để chiếu sáng một căn phòng nhỏ, vì vậy chúng ta nên giảm ánh sáng từ môi trường xuống mức nhỏ nhất có thể bằng cách thiết lập tốc độ chụp bằng với tốc độ đồng bộ hóa flash (flash sync speed) (thường là 1/200 hoặc 1/250 với các máy Canon DSLR hiện nay). Điều này sẽ làm cho ánh sáng flash trở thành nguồn sáng chính và loại bỏ các vấn đề gây ra bởi nhiều nguồn sáng có các nhiệt độ màu khác nhau.
Thiết lập khẩu độ
Nếu chúng ta muốn thiết lập khẩu độ để có được một độ sâu trường ảnh như ý, hãy chú ý tới các vấn đề sau. Khẩu độ nhỏ (f lớn) sẽ đòi hỏi phải thiết lập ISO cao để có được độ phơi sáng như ý. Độ sâu trường ảnh là một khái niệm tương đối phức tạp nhưng nói chung, với chụp ảnh người trong nhà, f/4 là đủ đối với một đối tượng và f/8 là đủ với một nhóm nhỏ. Đây là những nguyên tắc chung, bạn hoàn toàn có thể chọn một khẩu độ bạn cho là tốt nhất tùy thuộc vào chủ thể mà bạn định chụp.
Thiết lập độ nhạy sáng (ISO)
Chúng ta đã bàn qua về tốc độ chụp và khẩu độ, ISO là phần cuối cùng trong công thức tạo ra độ phơi sáng. Nếu sử dụng ISO cao, tấm ảnh sẽ có nhiều nhiễu, một mẹ nhỏ là thiết lập ISO vừa đủ để để có thể lấy đủ sáng cho bức ảnh chứ không nên thiết lập cao quá mức cần thiết. Điều này đòi hỏi bạn phải thiết lập và thử nhưng thông thường ISO 400 là mức hợp lý để bắt đầu.
Thiết lập, thử và điều chỉnh
Thông thường, chúng ta ước đoán một khẩu độ và ISO nào đó để có được độ phơi sáng cần thiết cho bức ảnh đối với flash phản xạ và thử để xác định thông số hợp lý. Với chế độ M trên máy ảnh, việc thiết lập có thể dựa vào hướng dẫn bên trên, đặt flash ở chế độ E-TTL, chụp vài tấm hình với chủ thể ở cuối phòng. Ngay sau mỗi lần chụp, quan sát đèn báo xác nhận độ phơi sáng trên flash (flash exposure confirmation lamp-FCL), gần đèn pilot phía sau flash. Tín hiệu từ đèn này cho biết flash có thể cung cấp đủ ánh sáng cho một tấm ảnh đúng sáng với các thông số chúng ta đã thiết lập hay không.
Nếu đèn này không sáng, điều này có nghĩa là flash không thể cung cấp đủ ánh sáng để có độ phơi sáng đúng với các thông số ta đã chọn. Cần phải mở khẩu hoặc tăng ISO tùy theo mục đích chụp và thử lại lần nữa.
Nếu đèn sáng, nhìn vào histogram để xác định tấm ảnh đã đúng sáng hay chưa. Nếu tấm ảnh bị thiếu sáng, tăng thêm độ sáng cho flash bằng cách bấm vào +FEC (flash exposure compensation). Việc tăng sáng cho flash là thường thấy trong khi sử dụng flash phản xạ và chế độ đo sáng E-TTL của flash. Sau khi điều chỉnh FEC, thử lại, điều chỉnh tiếp cho tới khi đạt được độ phơi sáng mong muốn.
Khi chúng ta thực hiện việc điều chỉnh, chúng ta đã sẵn sàng để chụp được những tấm ảnh với độ phơi sáng đúng. Tuy nhiên, cần phải nhớ kiểm tra FCL và histogram thường xuyên. Rất nhiều yếu tố như trang phục màu, cửa sổ màu trắng hoặc việc thay đổi hậu cảnh có thể làm hệ thống đo sáng của flash không chính xác và cần phải điều chỉnh bởi người chụp.
Dưới đây là một số kinh nghiệm về chụp với flash phản xạ cần nhớ:
1. Hướng flash thẳng lên trần mỗi khi bạn muốn đánh flash phản xạ, tránh sử dụng góc 45 độ vì nó có xu hướng chỉ chiếu sáng chủ thể và và tạo ra các vùng sáng trên trần nhà ở phía trên chủ thể.
2. Buộc một tấm bìa vào đầu của flash như hình dưới sẽ tạo ra catchlight trong mắt của chủ thế và cung cấp thêm một chút ánh sáng chiếu trực tiếp để bù sáng cho những phần bóng đổ trên chủ thể như hốc mắt, cổ.
3. Zoom flash tới mức rộng nhất có thể sẽ tạo ra một vùng sáng rộng từ trên trần giúp cho việc chiếu sáng hiệu quả hơn và cung cấp nhiều ánh sáng phản xạ từ tấm bìa hơn.
4. Trần nhà không phải là nơi duy nhất có thể sử dụng cho ánh sáng phản xạ. Chúng ta có thể sử dụng các bức tường xung quanh.
Bài 4: Guide Number
Guide number là gì?
Guide number cho flash điện tử là một cách để xác nhận độ sáng cực đại mà đèn flash có thể tạo ra được diễn đạt theo hai thông số là khẩu độ và khoảng cách.Guide number (GN) là một kết quả tính toán từ khẩu độ và khoảng cách từ flash tới chủ thể thể hiện lượng ánh sáng phải cung cấp để cho ảnh đủ sáng.
Công thức cơ bản: GN = khẩu độ x khoảng cách
Từ công thức trên chúng ta có thể suy ra:
Khẩu độ = GN/khoảng cách
Khoảng cách = GN/khẩu độ
Ba cách thường sử dụng GN là:
1. Xác định khẩu độ cần thiết để chụp tại một khoảng cách định trước khi sử dụng manual flash. Ví dụ: Flash có GN bằng 160 ft và khoảng cách cần chụp là 20ft, khẩu cần phải dùng là f/8.
2. Xác định khoảng cách tối đa mà flash có thể cung cấp đủ sáng cho chủ thể tại khẩu đã định trước. Ví dụ: Flash có GN là 160ft và khẩu sử dụng là f/8. Khoảng cách tối đa mà flash có thể cung cấp đủ sáng là 20ft.
3. So sánh độ mạnh của các loại đèn flash (GN càng cao thì đèn càng mạnh). Tất nhiên chúng ta phải so sánh trên cùng một tiêu chí (có thể xem mục 2 ở dưới đây)
Những vấn đề này tương đối đơn giản và khá dễ hiểu, tuy nhiên có một số vấn đề chúng ta cần phải nhớ:
1. GN phải được thể hiện bằng một số đo khoảng cách nào đó (thường là ft hoặc m) tại một giá trị ISO nào đó. Hầu hết các quảng cáo về guide number được đo bằng m tại ISO 100, nhưng bạn phải xác định chắc chắn những vấn đề này. Một số trường hợp, GN được thể hiện bằng feet và một số trường hợp được ghi nhận tại ISO 25 hoặc một giá trị nào khác. Để chuyển từ m sang feet, bạn nhân với 3.3.
2. GN thay đổi khi bạn zoom flash. Ví dụ, đèn 580EX có GN bằng 58m khi zoom tại 105mm nhưng chỉ có GN bằng 28 khi zoom tại 28mm.
3. GN tăng khi chúng ta tăng ISO. Tăng gấp đôi ISO, GN sẽ tăng gấp 1.4 lần. Tăng ISO từ 100 lên 400 sẽ tăng gấp đôi GN.
4. Việc sử dụng thêm một loại dụng cụ thay đổi ánh sáng flash nào đó (diffuser, bouncer, umbrella…vv) cho flash sẽ làm giảm hiệu quả của GN. Giá trị GN trong tài liệu đi kèm là giá trị đo khi không sử dụng thêm bất kỳ một dụng cụ nào.
5. GN sẽ giảm rõ rệt khi sử dụng chế độ đồng bộ tốc độ cao (high speed sync-FP Flahs). Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ vấn đề này ở phần sau
Những vấn đề trên có thể sẽ làm cho công thức tính toán trở nên phức tạp hơn một chút, vì vậy chúng ta cần để ý tới khoảng cách được thể hiện ở màn hình phía sau flash. Flash sẽ tính toán cho chúng ta, từ các thông số khẩu độ, ISO và HSS, và đưa ra một ước tính tương đối chính xác khoảng cách mà bạn có thể đứng. Hãy nhớ rằng flash không thể biết rằng chúng ta đang sử dụng diffuser hay không, vì vậy nếu chúng ta có sử dụng thì kết quả mà flash đưa ra vẫn không thay đổi